LOGISTICS XANH: HƯỚNG ĐI TẤT YẾU CỦA DOANH NGHIỆP TRONG KỶ NGUYÊN SỐ

Cảng xanh, logistics xanh, bền vững đang trở thành xu hướng quan trọng tại Việt Nam và trở thành hướng đi tất yếu của doanh nghiệp trong kỷ nguyên số, khi Việt Nam đã cam kết giảm phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.

Hoạt động bốc dỡ hàng hóa tại Cảng tổng hợp Bình Dương.	Ảnh: T.D
Hoạt động bốc dỡ hàng hóa tại Cảng tổng hợp Bình Dương. Ảnh: T.D

Doanh nghiệp tiên phong chuyển đổi số

Là một trong những cảng tiên phong trong chuyển đổi số và thực hiện cảng xanh, Thượng tá Vũ Anh Tuấn, Phó trưởng Ban chỉ đạo cảng xanh, Tổng công ty Tân cảng Sài Gòn chia sẻ, giai đoạn đầu (năm 2009), Tân cảng đã chuyển đổi từ sử dụng dầu diesel sang sử dụng điện toàn bộ, giúp giảm 1/3 chi phí hàng năm, từ 200 tỷ đồng giảm còn 66 tỷ đồng. Đồng thời, chuyển đổi này giúp tối ưu hóa quản trị điều hành, công nghệ sản xuất, và dự trữ vật tư sửa chữa.

Công ty TNHH MTV Thương mại và Tiếp vận Bảo Tín (PPL) cũng tích cực đổi mới công nghệ. Để đáp ứng nhu cầu vận chuyển các cấu kiện siêu trường, siêu trọng như chân đế điện gió, tuabin, máy biến áp, PPL đã đầu tư thiết bị vận tải đặc chủng từ châu Âu. Trong năm 2024, công ty đầu tư 84 trục SPMT (thiết bị vận tải hàng siêu trường, siêu trọng) hiện đại nhất, đồng thời đẩy mạnh đào tạo chuyên sâu và hợp tác chuyển giao công nghệ.

Ông Đỗ Hoàng Phương, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc PPL cho biết, nhờ chuyển đối số, công ty có thể giảm thời gian vận chuyển, hạn chế lãng phí, và đảm bảo thiết bị đến đúng tiến độ. Đồng thời, còn tăng tính minh bạch và dễ dàng theo dõi tiến độ dự án. Điều này tạo sự tin tưởng cho khách hàng và đối tác, giúp công ty nổi bật trên thị trường logistics bền vững. Tối ưu hóa quy trình và tiết kiệm nhiên liệu thông qua xanh hóa và chuyển đổi số có thể giảm đáng kể chi phí vận hành dài hạn, mang lại lợi thế tài chính và khả năng đầu tư vào các giải pháp công nghệ mới.

Tương tự, Cảng quốc tế Gemalink cũng chủ động ứng dụng công nghệ vào hoạt động khai thác cảng. Số hóa và tự động hóa đóng vai trò then chốt, mang lại hiệu quả vượt trội, giúp Gemalink tối ưu hóa quy trình, giảm chi phí, nâng cao chất lượng dịch vụ, góp phần bảo vệ môi trường và đóng góp vào tiến trình phát triển kinh tế của đất nước.

Giảm phát thải, chi phí trong chuỗi logistics

Theo ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục XNK, Bộ Công Thương, logistics là một trong 3 ngành có lượng phát thải rất lớn cùng với sản xuất công nghiệp và năng lượng. Trong đó, ngành vận tải chiếm tỷ trọng phát thải lớn nhất khi các phương tiện vận tải đường bộ, đường thủy, đường hàng không tiêu thụ rất nhiều năng lượng. Vì vậy, xu hướng logistics xanh trước tiên thể hiện ở việc chuyển đổi nguồn năng lượng ít phát thải hơn, sử dụng phương thức tiết kiệm năng lượng, nâng cao hiệu suất vận chuyển.

Xu hướng ứng dụng công nghệ, tự động hóa cũng đang được diễn ra nhanh và mạnh. Thương mại điện tử hiện đang là hướng chủ đạo và logistics trong thương mại điện tử không thể không áp dụng công nghệ.

Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường, có 53% doanh nghiệp logistics vừa và lớn đã áp dụng các giải pháp tiết kiệm năng lượng trong vận tải và kho bãi; 38% doanh nghiệp đã đầu tư vào phương tiện vận tải sử dụng năng lượng sạch (điện, khí tự nhiên). Lượng phát thải CO2 từ hoạt động logistics giảm 12% so với năm 2020. Kết quả khảo sát của Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA) cũng cho thấy, 65% khách hàng doanh nghiệp ưu tiên lựa chọn các nhà cung cấp dịch vụ logistics có chứng nhận môi trường; 47% doanh nghiệp logistics đã áp dụng các tiêu chuẩn ISO 14001 về quản lý môi trường.

Từ thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp, ông Ben Anh, CEO Tập đoàn ITL cho rằng, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh không chỉ là xu hướng tất yếu của ngành logistics toàn cầu, mà còn đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển bền vững của logistics Việt Nam. Đại diện Tập đoàn ITL phân tích, với tốc độ tăng trưởng bình quân 14 – 16%/năm, ngành logistics Việt Nam phát sinh lượng khí thải lớn, đặc biệt là trong các lĩnh vực vận tải và kho bãi. Vì vậy, việc áp dụng các giải pháp logistics xanh như sử dụng phương tiện vận tải bằng điện hoặc các phương tiện có hiệu suất cao hơn chuẩn Euro 5; tối ưu hóa công nghệ tiên tiến vào vận hành, lắp đặt hệ thống điện năng lượng mặt trời, kết hợp vận chuyển bằng xe tải và sà lan… không chỉ giúp giảm khí thải, mà còn tăng tính cạnh tranh. Bên cạnh đó, logistics thông minh giúp nâng cao hiệu quả hoạt động thông qua việc ứng dụng công nghệ vào quản lý chuỗi cung ứng và vận tải, giúp giảm chi phí, tối ưu hóa thời gian và giảm thiểu rủi ro.

Đặc biệt, công nghệ 4.0 được áp dụng ngày càng rộng rãi trong quản lý logistics tại Việt Nam, giúp nâng cao hiệu quả và giảm chi phí. Theo đó, 68% doanh nghiệp logistics vừa và lớn đã ứng dụng IoT trong quản lý kho và vận tải; 52% doanh nghiệp đã triển khai các giải pháp Big Data và AI trong dự báo nhu cầu và tối ưu hóa tuyến đường; 35% đã thử nghiệm công nghệ Blockchain trong truy xuất nguồn gốc và quản lý chuỗi cung ứng. Các doanh nghiệp áp dụng công nghệ 4.0 đã giảm được trung bình 23% chi phí logistics so với phương pháp truyền thống. Thời gian xử lý đơn hàng giảm trung bình 35% nhờ tự động hóa.

Theo ông Đào Trọng Khoa, Chủ tịch VLA, Đây là thời điểm các doanh nghiệp logistics Việt Nam cần nhanh chóng chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và tái cấu trúc mô hình kinh doanh để bắt kịp xu hướng phát triển toàn cầu. Đầu tư vào công nghệ mới, cải tiến quy trình vận hành và tăng cường liên kết trong hệ sinh thái logistics là yếu tố quyết định để doanh nghiệp có thể bứt phá.

Bên cạnh đó, Chính phủ cần đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi, thông qua việc đẩy nhanh quá trình số hóa trong quản lý logistics, cải cách thủ tục hành chính và nâng cao chất lượng hạ tầng. Điều này sẽ giúp các doanh nghiệp logistics trong nước có thêm động lực và điều kiện để phát triển mạnh mẽ hơn.

Mặt khác, để thực hiện chương trình logistics xanh, các chuyên gia cho rằng rất cần các yếu tố về thể chế, hạ tầng và con người. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Theo Hiệp hội VLA, hiện chỉ có khoảng 24% nhân lực logistics được đào tạo chuyên ngành. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết về đầu tư vào đào tạo và phát triển kỹ năng cho đội ngũ nhân viên. Doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược đào tạo bài bản, kết hợp giữa đào tạo nội bộ và hợp tác với các cơ sở giáo dục chuyên ngành.

Ngoài ra, Nhà nước cần đóng vai trò hỗ trợ trọng yếu trong thúc đẩy phát triển xanh thông qua đầu tư đồng bộ vào hạ tầng, tài chính, công nghệ, cũng như năng lượng xanh và sạch. Việc xây dựng các bộ tiêu chí rõ ràng và cụ thể, kết hợp với cơ chế cấp chứng nhận “Doanh nghiệp xanh” cho những đơn vị đáp ứng các tiêu chuẩn này, sẽ tạo động lực mạnh mẽ, khuyến khích doanh nghiệp nỗ lực hơn trong hành trình chuyển đổi xanh, hướng tới sự phát triển bền vững và hiệu quả.

Hòa – Dịu – HẢI QUAN ONLINE

0913575247 Mr Đức ducnvtk4@gmail.com