Logistics Việt Nam: Chỗ đứng nào trong chiến tranh thương mại?

Logistics Việt Nam: Chỗ đứng nào trong chiến tranh thương mại?

Nhà đầu tư khi đặt cứ điểm sản xuất, việc đầu tiên được tính đến là khả năng thông thương hàng hóa thuận lợi thế nào. Trong cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung, nếu có chuyện dịch chuyển dòng vốn qua Việt Nam, thì khả năng đáp ứng của ngành logistics sẽ được quan tâm hàng đầu.

Các trung tâm logistics xuất hiện ngày càng nhiều nhưng cần đầu tư hơn nữa để hoàn chỉnh quá trình dịch vụ sau sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa. Ảnh minh họa Thành Hoa

Theo bà Nguyễn Thị Hồng, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Việt Nam là quốc gia có chỉ số độ mở của nền kinh tế (xuất nhập khẩu hàng hóa/GDP) là 200%. Nên các lĩnh vực liên quan đến xuất nhập khẩu đều trông chờ rất lớn vào mức độ tăng trưởng của xuất khẩu cũng như độ mở của nền kinh tế để phát triển.

Logistics – ngành nghề chuẩn hóa quá trình vận chuyển hàng hóa từ khâu đầu đến khâu cuối, chịu nhiều ảnh hưởng nhất của xuất nhập khẩu. Khi cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung nổ ra, đặc biệt cao trào ở giai đoạn này với việc dự định áp thuế khoảng 300 tỉ đô la hàng hóa từ Mỹ vào Trung Quốc, ngành logistics Việt Nam cũng đứng trước nhiều cơ hội và tính toán.

Lý do là cả Mỹ và Trung Quốc đều là những đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Mỗi năm xuất và nhập khẩu từ Việt Nam qua các quốc gia này cũng như chiều ngược lại đều hàng chục tỉ đô la. Như thị trường Mỹ, kim ngạch hai chiều là hơn 60 tỉ đô la (năm 2018). Điều đó cho thấy, logistics là một phần trong “miếng bánh” thương mại hàng chục tỉ đô la đó. Mỗi lần kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tăng hay giảm thì phần của logistics cũng bị tác động theo.

Như năm 2018, khi xuất khẩu từ Việt Nam qua Mỹ tăng 14,3% so với năm trước đó, 4.000 doanh nghiệp logistics Việt Nam đã tăng mạnh đầu tư và chuẩn hóa quá trình vận chuyển, giám sát hàng hóa, lưu kho, làm thủ tục hải quan… để nhận được nhiều đơn hàng từ các nhà xuất nhập khẩu.

Tuy nhiên, trong số 4.000 doanh nghiệp logistics hiện có, tỉ lệ các doanh nghiệp nhỏ chiếm phần nhiều. Thống kê từ Hiệp hội Logistics cho biết, số lượng doanh nghiệp có số vốn hoạt động dưới 10 tỉ đồng chiếm hơn 77% và chỉ có 0,59% doanh nghiệp có số vốn hoạt động trên 500 tỉ đồng. Thậm chí có 94,84% trong số này là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ trong lĩnh vực vận tải, kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải, bưu chính, chuyển phát – là những mảnh ghép “vụn” trong chuỗi logistics ở Việt Nam.

Hiện có khoảng 30 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics xuyên quốc gia đang hoạt động tại nước ta và đều là các doanh nghiệp giao nhận lớn.

Tuy nhiên, bức tranh không đồng đều của các doanh nghiệp trên thị trường kinh doanh dịch vụ logistics cho thấy, trong chuỗi kết nối còn nhiều “mảnh ghép nhỏ” dẫn đến chất lượng doanh nghiệp trên thị trường logistics còn nhiều vấn đề, nếu muốn phát triển để tham gia vào những cơ hội bất ngờ như chiến tranh thương mại Mỹ – Trung hay làn sóng dịch chuyển xu hướng đầu tư, sản xuất sang Việt Nam nhằm tạo đà cho xuất khẩu.

Các trung tâm logisctics lớn với quy mô đầu tư mỗi nơi hàng chục triệu đô la mọc lên nhanh hơn trong những năm gần đây. Nhưng số lượng các doanh nghiệp logistics lớn như Tân Cảng Sài Gòn, Gemadept, TBS logistics… là rất ít.

Hơn nữa, các trung tâm logistics hoàn chỉnh phải đảm bảo được hơn 6 điều kiện: là nơi tập trung hàng hóa (đóng, rút hàng); làm thủ tục hải quan; đóng gói bao bì; dán tem, kiểm soát chất lượng; kiểm tra chuyên ngành; có ngân hàng thanh toán tại chỗ; các dịch vụ liên quan khác… thì hầu như chưa có một trung tâm logistics nào ở Việt Nam đáp ứng được cùng lúc hơn 6 yêu cầu này.

Các doanh nghiệp logistics muốn phát triển thì cũng vấp phải những điểm tắc về kết cấu hạ tầng, vận tải đa phương thức thiếu đồng bộ. Ví dụ như muốn vận tải hàng hóa bằng đường sắt qua Trung Quốc để giảm chi phí thì việc vận chuyển ngay trong nội địa Việt Nam cũng không thông suốt vì có 6 km khổ đường sắt tại Lào Cai không tương thích với khổ ray bên Trung Quốc nên phải hạ tải qua ô tô, làm tăng chi phí, chậm giao hàng.

Hay hàng hóa xuất nhập khẩu vào Việt Nam 70% bằng đường biển và chủ yếu thông qua cảng Hải Phòng. Nơi này tập trung các doanh nghiệp logistics lớn nhưng giá dịch vụ còn cao, nhất là các loại phí mà bên nhận hàng phải trả.

Hơn nữa, 77% vận tải hàng hóa trong nội địa bằng đường bộ thì chi phí vận tải đã chiếm 60% giá thành logistics, chưa tính đến các yếu tố tắc đường, tắc cảng, phí lưu kho hay các chi phí không chính thức khác.

Do vậy bài toàn “dọn” đường cho việc dịch chuyển dòng vốn có cơ hội vào Việt Nam, ngoài các cải cách về hành chính, thủ tục kiểm tra chuyên ngành thì việc mở đường cho ngành logistics phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu cũng là một thách thức.

 

NGUỒN: TBKTSG Online

0913575247 Mr Đức ducnvtk4@gmail.com