Liệu có thể hồi sinh Hiệp định TPP?
Theo HSBC, việc Mỹ rút khỏi TPP có vẻ là đòn chí mạng cho hiệp định này. Trên lý thuyết, 11 quốc gia thành viên còn lại vẫn có thể tiếp tục tham gia TPP một khi họ hoàn tất việc sửa đổi hợp lệ các điều khoản phê chuẩn của hiệp định, nhưng không ít các nước thành viên không đồng tình với phương án này.
Sau khi Australia đưa ra đề xuất đầu tiên, khuyến khích các quốc gia còn lại tiếp tục hiệp định dù Mỹ không tham gia, Nhật Bản thể hiện rõ sự phản đối với ý tưởng trên, cho rằng đề nghị này biến Hiệp định TPP, vốn đã hạn chế, trở nên “vô nghĩa”. Một lý do khiến kịch bản hồi sinh khó thành hiện thực là các quốc gia thành viên đồng thuận thực hiện cam kết quan trọng khi tham gia TPP vì họ cho rằng, hiệp định này sẽ cho phép các quốc gia thành viên cùng tiếp cận thị trường khu vực với quy mô lớn.
Nếu không còn Mỹ, thị trường rộng lớn của TPP sẽ giảm xuống 60%, những quốc gia còn lại trong khối khó có thể chấp nhận những nhượng bộ đã thương thuyết trước đó trong TPP.
Đồng thời, một số những đề xuất cải tiến của TPP có thể được sử dụng trong các cuộc đàm phán khu vực hoặc song phương mới hoặc đang diễn ra. Ví dụ, một hiệp định như Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (Regional Comprehensive Economic Partnership – RCEP) đang được đàm phán tại châu Á. Các nhà thương thuyết nhiều khả năng sẽ cân nhắc các điều khoản của TPP nhằm cải thiện sự thống nhất quy định, giải quyết tranh chấp khối đầu tư nhà nước, sự linh hoạt trong việc xử lý quyền sở hữu trí tuệ, và nâng cấp bảo vệ tiêu chuẩn lao động hay vấn đề môi trường….
Theo HSBC, thiệt hại kinh tế từ việc hủy bỏ Hiệp định TPP khó thấy được tức thì. Hầu hết các khoản chi xuất phát từ lợi ích tương lai đã bị bỏ đi trong khu vực, đang chuyển thể thành những tỷ lệ tăng trưởng thấp hơn và ít sáng tạo hơn nếu như tình hình được xúc tiến thuận lợi theo hướng khác.
Tăng trưởng khu vực TPP chậm lại có thể lan sang các khu vực khác do nhu cầu nhập khẩu của các quốc gia thành viên TPP suy yếu. Hơn nữa, việc đàm phán các hiệp định thương mại là một quá trình tiêu tốn nguồn lực đáng kể, và thất bại này không chỉ gây tốn kém về lợi ích đã mất đi, mà còn về chi phí cơ hội.
Theo HSBC, tiềm năng tăng trưởng bị bỏ qua do quyết định rời khỏi hiệp định TPP có thể khiến kinh tế Mỹ tồi tệ hơn dự báo. Hơn nữa, không có những tiêu chuẩn cao theo TPP, thị trường trong khu vực có thể sẽ phát triển chậm hơn trong việc giải quyết những vấn đề Mỹ đặt ra về môi trường, quyền lao động, bảo vệ thông tin bảo mật kinh doanh, và minh bạch trong các quy định của các đối tác giao thương”.
Mặc dù rõ ràng không thể loại trừ khả năng các thành viên TPP cuối cùng có thể quyết định vực dậy hiệp định theo một dạng thức thay thế khác, trường hợp này cũng khó có thể thành hiện thực ngay lúc này.
Tuy nhiên, tự do hóa thương mại vẫn có thể tiếp tục phát triển theo phương thức tiếp cận chiến lược mới của Mỹ, dựa trên các thỏa thuận thương mại song phương. Đi kèm với những chính sách bổ trợ phù hợp cho doanh nghiệp và người lao động, và tránh nhờ đến biện pháp bảo hộ, phương thức này có thể mang đến nhiều nguồn lợi kinh tế. Như nhà kinh tế học Thomas Piketty nhận xét: “Bảo hộ mậu dịch không mang lại sự thịnh vượng, trong khi thương mại tự do cùng việc mở cửa kinh tế luôn nằm trong danh sách yêu thích của tất cả mọi người.”
NGUỒN: VLR
Theo HSBC, việc Mỹ rút khỏi TPP có vẻ là đòn chí mạng cho hiệp định này. Trên lý thuyết, 11 quốc gia thành viên còn lại vẫn có thể tiếp tục tham gia TPP một khi họ hoàn tất việc sửa đổi hợp lệ các điều khoản phê chuẩn của hiệp định, nhưng không ít các nước thành viên không đồng tình với phương án này.
Sau khi Australia đưa ra đề xuất đầu tiên, khuyến khích các quốc gia còn lại tiếp tục hiệp định dù Mỹ không tham gia, Nhật Bản thể hiện rõ sự phản đối với ý tưởng trên, cho rằng đề nghị này biến Hiệp định TPP, vốn đã hạn chế, trở nên “vô nghĩa”. Một lý do khiến kịch bản hồi sinh khó thành hiện thực là các quốc gia thành viên đồng thuận thực hiện cam kết quan trọng khi tham gia TPP vì họ cho rằng, hiệp định này sẽ cho phép các quốc gia thành viên cùng tiếp cận thị trường khu vực với quy mô lớn.
Nếu không còn Mỹ, thị trường rộng lớn của TPP sẽ giảm xuống 60%, những quốc gia còn lại trong khối khó có thể chấp nhận những nhượng bộ đã thương thuyết trước đó trong TPP.
Đồng thời, một số những đề xuất cải tiến của TPP có thể được sử dụng trong các cuộc đàm phán khu vực hoặc song phương mới hoặc đang diễn ra. Ví dụ, một hiệp định như Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (Regional Comprehensive Economic Partnership – RCEP) đang được đàm phán tại châu Á. Các nhà thương thuyết nhiều khả năng sẽ cân nhắc các điều khoản của TPP nhằm cải thiện sự thống nhất quy định, giải quyết tranh chấp khối đầu tư nhà nước, sự linh hoạt trong việc xử lý quyền sở hữu trí tuệ, và nâng cấp bảo vệ tiêu chuẩn lao động hay vấn đề môi trường….
Theo HSBC, thiệt hại kinh tế từ việc hủy bỏ Hiệp định TPP khó thấy được tức thì. Hầu hết các khoản chi xuất phát từ lợi ích tương lai đã bị bỏ đi trong khu vực, đang chuyển thể thành những tỷ lệ tăng trưởng thấp hơn và ít sáng tạo hơn nếu như tình hình được xúc tiến thuận lợi theo hướng khác.
Tăng trưởng khu vực TPP chậm lại có thể lan sang các khu vực khác do nhu cầu nhập khẩu của các quốc gia thành viên TPP suy yếu. Hơn nữa, việc đàm phán các hiệp định thương mại là một quá trình tiêu tốn nguồn lực đáng kể, và thất bại này không chỉ gây tốn kém về lợi ích đã mất đi, mà còn về chi phí cơ hội.
Theo HSBC, tiềm năng tăng trưởng bị bỏ qua do quyết định rời khỏi hiệp định TPP có thể khiến kinh tế Mỹ tồi tệ hơn dự báo. Hơn nữa, không có những tiêu chuẩn cao theo TPP, thị trường trong khu vực có thể sẽ phát triển chậm hơn trong việc giải quyết những vấn đề Mỹ đặt ra về môi trường, quyền lao động, bảo vệ thông tin bảo mật kinh doanh, và minh bạch trong các quy định của các đối tác giao thương”.
Mặc dù rõ ràng không thể loại trừ khả năng các thành viên TPP cuối cùng có thể quyết định vực dậy hiệp định theo một dạng thức thay thế khác, trường hợp này cũng khó có thể thành hiện thực ngay lúc này.
Tuy nhiên, tự do hóa thương mại vẫn có thể tiếp tục phát triển theo phương thức tiếp cận chiến lược mới của Mỹ, dựa trên các thỏa thuận thương mại song phương. Đi kèm với những chính sách bổ trợ phù hợp cho doanh nghiệp và người lao động, và tránh nhờ đến biện pháp bảo hộ, phương thức này có thể mang đến nhiều nguồn lợi kinh tế. Như nhà kinh tế học Thomas Piketty nhận xét: “Bảo hộ mậu dịch không mang lại sự thịnh vượng, trong khi thương mại tự do cùng việc mở cửa kinh tế luôn nằm trong danh sách yêu thích của tất cả mọi người.”
NGUỒN: VLR