XUẤT KHẨU LẬP ĐỈNH HƠN 400 TỶ USD, NHÓM HÀNG NÀO ĐÓNG GÓP NHIỀU NHẤT?

Kết thúc năm 2024, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 405,53 tỷ USD, tăng 14,3% (tương ứng tăng 50,81 tỷ USD) so với năm trước, theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan.
Hoạt động xuất nhập khẩu qua cửa khẩu quốc tế đường bộ số II Kim Thành, Lào Cai.  	Ảnh: T.Bình
Hoạt động xuất nhập khẩu qua cửa khẩu quốc tế đường bộ số II Kim Thành, Lào Cai. Ảnh: T.Bình.

Máy vi tính chiếm ưu thế

Vượt qua điện thoại và linh kiện, những năm gần đây, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện liên tục đứng đầu về kim ngạch xuất khẩu.

Năm 2024 nhóm hàng này đạt 72,58 tỷ USD, chiếm tới 18% tổng tkim ngạch xuất khẩu của cả nước và tăng 26,6% (tương ứng tăng 15,26 tỷ USD) so với năm trước.

Xuất khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện trong năm 2024 chủ yếu sang Hoa Kỳ, EU, Hồng Kông (Trung Quốc), Hàn Quốc tăng mạnh, trong khi đó xuất sang Trung Quốc lại giảm.

Cụ thể, xuất sang Hoa Kỳ đạt 23,2 tỷ USD, tăng 36,3%; Trung Quốc đạt 12,64 tỷ USD, giảm 3,1%; EU đạt 9,9 tỷ USD, tăng 63,7%; Hồng Kông đạt 8,16 tỷ USD, tăng 47,3%; Hàn Quốc đạt 5,73 tỷ USD, tăng 18,6%…

Đứng thứ hai về kim ngạch xuất khẩu là điện thoại các loại và linh kiện với 53,89 tỷ USD, tăng 2,9% so với năm trước.

Xuất khẩu điện thoại các loại và linh kiện trong năm 2024 chủ yếu sang các thị trường như Trung Quốc với 15,44 tỷ USD, giảm 8,5%; Hoa Kỳ với 9,82 tỷ USD, tăng 24,3%; EU với 6,28 tỷ USD, giảm 12,8% so với năm trước.

Máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng đứng thứ ba với 52,19 tỷ USD, tăng 21% so với năm trước.

Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của nhóm hàng máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng đạt 22,05 tỷ USD, tăng 21,2%. EU đứng thứ hai với 7,36 tỷ USD, tăng 23,7%. Tính chung 2 thị trường này chiếm 56% kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước.

Các ngành hàng nông nghiệp bứt phá

Ngoài top 3 nhóm hàng xuất khẩu lớn nhất kể trên, năm 2024, còn 5 nhóm hàng xuất khẩu đạt kim ngạch 10 tỷ USD trở lên, tăng 1 nhóm so với năm 2023.

Nhóm hàng mới tham gia “câu lạc bộ xuất khẩu chục tỷ đô” là thủy sản. Năm 2024, xuất khẩu nhóm hàng này đạt 10,04 tỷ USD, tăng 11,9%, tương ứng tăng 1,07 tỷ USD so với năm trước.

Thủy sản của Việt Nam chủ yếu xuất sang các thị trường chủ lực như: Hoa Kỳ với 1,83 tỷ USD, tăng 17,6%; Trung Quốc với 1,73 tỷ USD, tăng 29,4%; Nhật Bản với 1,53 tỷ USD, tăng 1,1%; EU với 1,04 tỷ USD, tăng 9,4%…

4 nhóm hàng “chục tỷ đô” còn lại là dệt may đạt 37,04 tỷ USD, tăng 11,2% (tương ứng tăng 3,72 tỷ USD); giày dép đạt 22,87 tỷ USD, tăng 13% (tương ứng tăng 2,64 tỷ USD); gỗ và sản phẩm đạt 16,28 tỷ USD, tăng 20,9% (tương ứng tăng 2,81 tỷ USD); phương tiện vận tải và phụ tùng với 15,07 tỷ USD, tăng 6,4% (tương đương tăng 910 triệu USD).

Một điểm sáng khác trong xuất khẩu năm 2024 là sự bứt phá của ngành nông nghiệp. Ngoài 2 nhóm hàng “chục tỷ đô” là gỗ và sản phẩm; thủy sản, ngành nông nghiệp còn nhiều nhóm hàng xuất khẩu “tỷ đô”. Có thể kể đến như rau quả, hạt điều, gạo, cà phê, hạt tiêu…

Các nhóm hàng tăng trưởng mạnh như: rau quả đạt 7,15 tỷ USD, tăng 27,6% (tương ứng tăng 1,55 tỷ USD) so với năm trước. Trong đó, xuất khẩu quả sầu riêng đạt 3 tỷ USD, tăng tới 42,5%, tương ứng tăng 893 triệu USD so với năm trước và chiếm tỷ trọng 42% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng rau quả của cả nước.

Rau quả của Việt Nam chủ yếu xuất sang Trung Quốc với 4,63 tỷ USD, tăng 27,3% (tương ứng tăng 993 triệu USD) so với năm trước và chiếm 65% tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước.

Xuất khẩu gạo năm 2024 đạt 9,03 triệu tấn, tăng 11,1% so với năm trước và tổng kim ngạch đạt 5,67 tỷ USD, tăng 21,2%.

Gạo của Việt Nam chủ yếu được xuất khẩu sang thị trường ASEAN với 6,43 triệu tấn, chiếm 71% tổng lượng gạo xuất khẩu của cả nước và tăng 31% so với năm trước.

Xuất khẩu hạt tiêu năm 2024 ghi nhận con số tăng trưởng về kim ngạch hết sức ấn tượng. Cả năm, lượng hạt tiêu xuất khẩu chỉ đạt 249 nghìn tấn, giảm 6,2% so với năm năm trước, tuy nhiên đơn giá bình quân xuất khẩu nhóm hàng này tăng mạnh tới 53,9% nên tổng kim ngạch đạt 1,31 tỷ USD, tăng 44,4%.

Hạt tiêu của Việt Nam chủ yếu được xuất sang thị trường Hoa Kỳ với 73,72 nghìn tấn, tăng 33,9% và thị trường EU với 48,63 nghìn tấn, tăng 35,3%. Riêng xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc chỉ đạt 10,1 nghìn tấn, giảm mạnh tới 80,3%.

Thái Bình – HẢI QUAN ONLINE

0913575247 Mr Đức ducnvtk4@gmail.com