Kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Cục Thuế XNK: Xây dựng hệ thống quản lý thuế hiệu quả cho Hải quan Việt Nam
Trải qua 79 năm xây dựng và trưởng thành, Hải quan Việt Nam đã khẳng định vai trò, vị trí quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt trong giai đoạn đất nước đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế. Cùng với đó, ngành Hải quan đạt được nhiều kết quả quan trọng trong công tác thu NSNN với sự nỗ lực của tập thể công chức, đặc biệt là Cục Thuế XNK kể từ khi thành lập đến nay.
Cục Thuế XNK là đơn vị nghiệp vụ chủ lực, có nhiệm vụ xây dựng, tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về thuế, quản lý thuế; tham mưu, giúp lãnh đạo Tổng cục điều hành tổ chức thực hiện chính sách thuế đối với hàng hóa XNK và công tác thu nộp NSNN; đề xuất các giải pháp khai thác nguồn thu, chống gian lận thương mại, trốn thuế; thực hiện công tác tham mưu, hướng dẫn phân loại nợ thuế, xử lý nợ thuế, ứng dụng công nghệ thông tin trong việc quản lý nợ thuế…
Nhìn lại quá trình 30 năm hình thành và phát triển, tôi đánh giá cao những đóng góp của đơn vị trong các giai đoạn với những đề xuất, giải pháp có chất lượng, hiệu quả. Trong đó, việc đề xuất, xây dựng, triển khai thực hiện cơ chế chính sách pháp luật thuế XNK đã góp phần bảo hộ sản xuất, khuyến khích và định hướng luồng vốn đầu tư sản xuất trong nước phát triển, có hiệu quả. Việc triển khai thu thuế điện tử và thông quan 24/7 những năm gần đây đã đóng góp tích cực vào kết quả công tác chung của Ngành và sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, góp phần tạo thuận lợi cho cộng đồng DN.
Kết quả thể hiện rõ rệt qua số thu hằng năm. Nếu như năm 1994 – thời điểm thành lập đơn vị số thu NSNN từ hoạt động XNK dưới 10 nghìn tỷ đồng thì đến hết năm 2023, con số này đã lên tới 368,8 nghìn tỷ đồng. Cụ thể, trong giai đoạn 1994 – 2003 thu cân đối từ hoạt động XNK đạt 222.120 tỷ đồng; giai đoạn 2004 – 2013 thu đạt 1.332.658 tỷ đồng, tăng gấp 6 lần so với giai đoạn trước và giai đoạn 2014 – 2023 thu đạt 3.242.189 tỷ đồng, tăng gấp 2,4 lần so với giai đoạn 2004 – 2013.
Theo Tổng cục trưởng, kết quả nổi bật mà Cục Thuế XNK đạt được có ý nghĩa như thế nào trong kết quả chung của toàn Ngành?
Những năm qua, sự đóng góp trong nghiên cứu, tham mưu, xây dựng và đề xuất xây dựng hệ thống văn bản hướng dẫn các chính sách thuế XNK của Cục Thuế XNK đã giúp cho ngành Hải quan được đánh giá là một cơ quan có bước tiến vượt bậc trong công tác cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho DN, người khai hải quan.
Trong đó, Cục Thuế XNK đã chủ trì xây dựng Luật Thuế XK, thuế NK; Nghị định 134/2016/NĐ-CP về hướng dẫn Luật Thuế XK, thuế NK; tham gia ý kiến, tham mưu cho Bộ Tài chính xây dựng Luật thuế Bảo vệ môi trường, Luật thuế Giá trị gia tăng; Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều tại các Luật quy định về thuế; chính sách hoàn thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa của người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mang theo khi xuất cảnh… Theo đó, hệ thống pháp luật về thuế không ngừng được hoàn thiện, đồng bộ cả về chính sách và thủ tục thuế, đầy đủ và thống nhất từ Luật đến nghị định, thông tư.
Ngoài ra, Cục Thuế XNK đã thực hiện hiệu quả các nghiệp vụ như trị giá hải quan, phân loại mã số hàng hóa, đảm bảo thu đúng, thu đủ thuế đối với hàng hóa XNK. Đáng chú ý, Cục Thuế XNK là đơn vị tham mưu để Hải quan Việt Nam triển khai áp dụng Điều 7 Hiệp định trị giá GATT của WTO, đảm bảo xác định trị giá hải quan hàng NK phù hợp với các cam kết quốc tế, thay cho việc áp dụng trị giá tối thiểu, tạo ra sự thay đổi căn bản trong nghiệp vụ quản lý giá của cơ quan Hải quan. Đơn vị đã rất nỗ lực xây dựng Hệ thống cơ sở dữ liệu về giá (GTT02) nhằm tối ưu hóa quy trình làm việc và đã tạo tiền đề cho sự phát triển của Hải quan số.
Cục Thuế XNK còn tích cực tham mưu để các cấp có thẩm quyền phê duyệt nội luật hoá các quy định của Công ước quốc tế về hệ thống hài hoà mô tả và mã hóa hàng hoá (HS); chủ trì xây dựng trình cấp có thẩm quyền phê duyệt ban hành Danh mục hàng hóa hàng hoá XNK Việt Nam qua các thời kỳ. Luôn tích cực, chủ động phối hợp với các bộ, ngành tổng hợp, xây dựng các phương án đàm phán về Danh mục thuế quan hài hòa ASEAN (AHTN) và là một trong các thành viên tích cực của ASEAN trong công tác đàm phán quyết định, Danh mục AHTN.
Trong tiến trình hiện đại hóa, Cục Thuế XNK cũng đóng vai trò quan trọng thông qua việc xây dựng và vận hành các hệ thống tự động hóa thủ tục thuế và cơ sở dữ liệu phục vụ hoạt động nghiệp vụ thuế như VNACCS, GTT, MHS, KTT, miễn giảm hoàn, thu thuế điện tử 24/7… Định hướng tạo thuận lợi tối đa cho người nộp thuế bằng việc chủ trì thực hiện thu thuế điện tử 24/7 qua các ngân hàng thương mại vừa giúp tiết kiệm nhân lực vừa đảm bảo an toàn trong công tác quản lý, đơn giản hóa quy trình thu nộp thuế, rút ngắn thời gian hoàn thành thủ tục hải quan của DN xuống bằng mức trung bình của nhóm nước ASEAN-4 và theo kịp các nước tiên tiến như Hàn Quốc, Nhật Bản… Đến nay, tỷ lệ thu qua các ngân hàng thương mại phối hợp thu và Kho bạc Nhà nước đạt tỷ lệ 99,8% tổng hoạt động XNK.
Với những kết quả nổi bật nêu trên, Cục Thuế XNK đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu thu NSNN của ngành Hải quan trong nhiều năm qua.
Là công chức trưởng thành từ Cục Thuế XNK, Tổng cục trưởng có đánh giá như thế nào về công tác phát triển nguồn nhân lực của đơn vị trong thời gian qua?
Phát triển nguồn nhân lực là một trong những vấn đề hết sức quan trọng, là công việc khó khăn, phức tạp, liên quan đến yếu tố con người. Từ những ngày đầu thành lập, đến nay lực lượng công chức của đơn vị đã trưởng thành vượt bậc. Nếu như năm 1994, Cục Kiểm tra thu thuế XNK (tiền thân của Cục Thuế XNK) chỉ hơn 20 công chức thì đến nay Cục Thuế XNK có 98 công chức. Chất lượng nguồn nhân lực của đơn vị ngày càng được nâng cao và đó là một trong những yếu tố giúp đơn vị hoàn thành khối lượng công việc lớn những năm qua.
Là người từng công tác tại đơn vị, tôi tự hào vì bản thân được làm việc và trưởng thành từ công tác nghiệp vụ thuế XNK. Đây là công việc tương đối khó, đòi hỏi sự am hiểu chính sách pháp luật về thuế, kiên nhẫn, tỉ mỉ và dày công nghiên cứu để từ đó hoàn thành tốt các nhiệm vụ chuyên môn được giao.
Trong những năm qua, đơn vị cũng là chiếc nôi đào tạo nên nhiều công chức dày dặn kinh nghiệm, năng lực chuyên môn, có nhiều đóng góp đối với ngành Hải quan. Từ Cục Thuế XNK đã có rất nhiều công chức đã trưởng thành và hiện đang giữ trọng trách lãnh đạo tại các đơn vị trong và ngoài Ngành.
Theo Tổng cục trưởng, thời gian tới tập thể Cục Thuế XNK cần làm gì để đáp ứng yêu cầu phát triển trong chiến lược của Ngành Hải quan?
Quản lý thuế đối với hàng hóa XNK là một trong những nhiệm vụ quan trọng của ngành Hải quan. Đặc biệt, trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay, việc ứng dụng CNTT vào quản lý hải quan nói chung và công tác quản lý thuế đối với hàng hóa XNK nói riêng là hết sức cần thiết để phù hợp với các chuẩn mực của Hải quan thế giới.
Để thực hiện mục tiêu đặt ra tại Chiến lược phát triển Hải quan đến năm 2030, tôi cho rằng, Cục Thuế XNK cần tiếp tục hoàn thiện nền tảng pháp luật về hải quan, pháp luật về quản lý thuế đảm bảo hành lang pháp lý cho việc xây dựng, triển khai mô hình Hải quan số, Hải quan thông minh.
Tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý nhằm nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro trong lĩnh vực quản lý thuế; tái thiết kế quy trình nghiệp vụ đáp ứng mô hình Hải quan thông minh; tổ chức lại bộ máy và nguồn nhân lực theo hướng tinh gọn, chuyên sâu, đảm bảo thực thi hiệu quả nhiệm vụ quản lý thuế XNK trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay; chú trọng xây dựng, phát triển đội ngũ công chức có trình độ chuyên môn sâu, chuyên nghiệp, làm chủ công nghệ, trang thiết bị hiện đại, được tổ chức, quản lý khoa học, đáp ứng mô hình quản lý hải quan hiện đại.
Để đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, Cục Thuế XNK cần tiếp tục bám sát các mục tiêu, nhiệm vụ tham mưu, đề xuất xây dựng cơ chế chính sách thuế và quản lý thuế theo hướng tạo thuận lợi thương mại, hoạt động kinh doanh, sản xuất cho DN nhằm nuôi dưỡng nguồn thu, chống thất thu, chống gian lận thương mại qua mã, giá, miễn giảm thuế, hoàn thuế…
Trong đó, không ngừng đổi mới, hoàn chỉnh các phương pháp dự báo nguồn thu; cải tiến, hiện đại hóa công tác quản lý thu bằng các hệ thống CNTT quản lý dữ liệu để phục vụ vào nhiệm vụ chung của Ngành.
NGUỒN HẢI QUAN ONLINE
Trải qua 79 năm xây dựng và trưởng thành, Hải quan Việt Nam đã khẳng định vai trò, vị trí quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt trong giai đoạn đất nước đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế. Cùng với đó, ngành Hải quan đạt được nhiều kết quả quan trọng trong công tác thu NSNN với sự nỗ lực của tập thể công chức, đặc biệt là Cục Thuế XNK kể từ khi thành lập đến nay.
Cục Thuế XNK là đơn vị nghiệp vụ chủ lực, có nhiệm vụ xây dựng, tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về thuế, quản lý thuế; tham mưu, giúp lãnh đạo Tổng cục điều hành tổ chức thực hiện chính sách thuế đối với hàng hóa XNK và công tác thu nộp NSNN; đề xuất các giải pháp khai thác nguồn thu, chống gian lận thương mại, trốn thuế; thực hiện công tác tham mưu, hướng dẫn phân loại nợ thuế, xử lý nợ thuế, ứng dụng công nghệ thông tin trong việc quản lý nợ thuế…
Nhìn lại quá trình 30 năm hình thành và phát triển, tôi đánh giá cao những đóng góp của đơn vị trong các giai đoạn với những đề xuất, giải pháp có chất lượng, hiệu quả. Trong đó, việc đề xuất, xây dựng, triển khai thực hiện cơ chế chính sách pháp luật thuế XNK đã góp phần bảo hộ sản xuất, khuyến khích và định hướng luồng vốn đầu tư sản xuất trong nước phát triển, có hiệu quả. Việc triển khai thu thuế điện tử và thông quan 24/7 những năm gần đây đã đóng góp tích cực vào kết quả công tác chung của Ngành và sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, góp phần tạo thuận lợi cho cộng đồng DN.
Kết quả thể hiện rõ rệt qua số thu hằng năm. Nếu như năm 1994 – thời điểm thành lập đơn vị số thu NSNN từ hoạt động XNK dưới 10 nghìn tỷ đồng thì đến hết năm 2023, con số này đã lên tới 368,8 nghìn tỷ đồng. Cụ thể, trong giai đoạn 1994 – 2003 thu cân đối từ hoạt động XNK đạt 222.120 tỷ đồng; giai đoạn 2004 – 2013 thu đạt 1.332.658 tỷ đồng, tăng gấp 6 lần so với giai đoạn trước và giai đoạn 2014 – 2023 thu đạt 3.242.189 tỷ đồng, tăng gấp 2,4 lần so với giai đoạn 2004 – 2013.
Theo Tổng cục trưởng, kết quả nổi bật mà Cục Thuế XNK đạt được có ý nghĩa như thế nào trong kết quả chung của toàn Ngành?
Những năm qua, sự đóng góp trong nghiên cứu, tham mưu, xây dựng và đề xuất xây dựng hệ thống văn bản hướng dẫn các chính sách thuế XNK của Cục Thuế XNK đã giúp cho ngành Hải quan được đánh giá là một cơ quan có bước tiến vượt bậc trong công tác cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho DN, người khai hải quan.
Trong đó, Cục Thuế XNK đã chủ trì xây dựng Luật Thuế XK, thuế NK; Nghị định 134/2016/NĐ-CP về hướng dẫn Luật Thuế XK, thuế NK; tham gia ý kiến, tham mưu cho Bộ Tài chính xây dựng Luật thuế Bảo vệ môi trường, Luật thuế Giá trị gia tăng; Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều tại các Luật quy định về thuế; chính sách hoàn thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa của người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mang theo khi xuất cảnh… Theo đó, hệ thống pháp luật về thuế không ngừng được hoàn thiện, đồng bộ cả về chính sách và thủ tục thuế, đầy đủ và thống nhất từ Luật đến nghị định, thông tư.
Ngoài ra, Cục Thuế XNK đã thực hiện hiệu quả các nghiệp vụ như trị giá hải quan, phân loại mã số hàng hóa, đảm bảo thu đúng, thu đủ thuế đối với hàng hóa XNK. Đáng chú ý, Cục Thuế XNK là đơn vị tham mưu để Hải quan Việt Nam triển khai áp dụng Điều 7 Hiệp định trị giá GATT của WTO, đảm bảo xác định trị giá hải quan hàng NK phù hợp với các cam kết quốc tế, thay cho việc áp dụng trị giá tối thiểu, tạo ra sự thay đổi căn bản trong nghiệp vụ quản lý giá của cơ quan Hải quan. Đơn vị đã rất nỗ lực xây dựng Hệ thống cơ sở dữ liệu về giá (GTT02) nhằm tối ưu hóa quy trình làm việc và đã tạo tiền đề cho sự phát triển của Hải quan số.
Cục Thuế XNK còn tích cực tham mưu để các cấp có thẩm quyền phê duyệt nội luật hoá các quy định của Công ước quốc tế về hệ thống hài hoà mô tả và mã hóa hàng hoá (HS); chủ trì xây dựng trình cấp có thẩm quyền phê duyệt ban hành Danh mục hàng hóa hàng hoá XNK Việt Nam qua các thời kỳ. Luôn tích cực, chủ động phối hợp với các bộ, ngành tổng hợp, xây dựng các phương án đàm phán về Danh mục thuế quan hài hòa ASEAN (AHTN) và là một trong các thành viên tích cực của ASEAN trong công tác đàm phán quyết định, Danh mục AHTN.
Trong tiến trình hiện đại hóa, Cục Thuế XNK cũng đóng vai trò quan trọng thông qua việc xây dựng và vận hành các hệ thống tự động hóa thủ tục thuế và cơ sở dữ liệu phục vụ hoạt động nghiệp vụ thuế như VNACCS, GTT, MHS, KTT, miễn giảm hoàn, thu thuế điện tử 24/7… Định hướng tạo thuận lợi tối đa cho người nộp thuế bằng việc chủ trì thực hiện thu thuế điện tử 24/7 qua các ngân hàng thương mại vừa giúp tiết kiệm nhân lực vừa đảm bảo an toàn trong công tác quản lý, đơn giản hóa quy trình thu nộp thuế, rút ngắn thời gian hoàn thành thủ tục hải quan của DN xuống bằng mức trung bình của nhóm nước ASEAN-4 và theo kịp các nước tiên tiến như Hàn Quốc, Nhật Bản… Đến nay, tỷ lệ thu qua các ngân hàng thương mại phối hợp thu và Kho bạc Nhà nước đạt tỷ lệ 99,8% tổng hoạt động XNK.
Với những kết quả nổi bật nêu trên, Cục Thuế XNK đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu thu NSNN của ngành Hải quan trong nhiều năm qua.
Là công chức trưởng thành từ Cục Thuế XNK, Tổng cục trưởng có đánh giá như thế nào về công tác phát triển nguồn nhân lực của đơn vị trong thời gian qua?
Phát triển nguồn nhân lực là một trong những vấn đề hết sức quan trọng, là công việc khó khăn, phức tạp, liên quan đến yếu tố con người. Từ những ngày đầu thành lập, đến nay lực lượng công chức của đơn vị đã trưởng thành vượt bậc. Nếu như năm 1994, Cục Kiểm tra thu thuế XNK (tiền thân của Cục Thuế XNK) chỉ hơn 20 công chức thì đến nay Cục Thuế XNK có 98 công chức. Chất lượng nguồn nhân lực của đơn vị ngày càng được nâng cao và đó là một trong những yếu tố giúp đơn vị hoàn thành khối lượng công việc lớn những năm qua.
Là người từng công tác tại đơn vị, tôi tự hào vì bản thân được làm việc và trưởng thành từ công tác nghiệp vụ thuế XNK. Đây là công việc tương đối khó, đòi hỏi sự am hiểu chính sách pháp luật về thuế, kiên nhẫn, tỉ mỉ và dày công nghiên cứu để từ đó hoàn thành tốt các nhiệm vụ chuyên môn được giao.
Trong những năm qua, đơn vị cũng là chiếc nôi đào tạo nên nhiều công chức dày dặn kinh nghiệm, năng lực chuyên môn, có nhiều đóng góp đối với ngành Hải quan. Từ Cục Thuế XNK đã có rất nhiều công chức đã trưởng thành và hiện đang giữ trọng trách lãnh đạo tại các đơn vị trong và ngoài Ngành.
Theo Tổng cục trưởng, thời gian tới tập thể Cục Thuế XNK cần làm gì để đáp ứng yêu cầu phát triển trong chiến lược của Ngành Hải quan?
Quản lý thuế đối với hàng hóa XNK là một trong những nhiệm vụ quan trọng của ngành Hải quan. Đặc biệt, trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay, việc ứng dụng CNTT vào quản lý hải quan nói chung và công tác quản lý thuế đối với hàng hóa XNK nói riêng là hết sức cần thiết để phù hợp với các chuẩn mực của Hải quan thế giới.
Để thực hiện mục tiêu đặt ra tại Chiến lược phát triển Hải quan đến năm 2030, tôi cho rằng, Cục Thuế XNK cần tiếp tục hoàn thiện nền tảng pháp luật về hải quan, pháp luật về quản lý thuế đảm bảo hành lang pháp lý cho việc xây dựng, triển khai mô hình Hải quan số, Hải quan thông minh.
Tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý nhằm nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro trong lĩnh vực quản lý thuế; tái thiết kế quy trình nghiệp vụ đáp ứng mô hình Hải quan thông minh; tổ chức lại bộ máy và nguồn nhân lực theo hướng tinh gọn, chuyên sâu, đảm bảo thực thi hiệu quả nhiệm vụ quản lý thuế XNK trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay; chú trọng xây dựng, phát triển đội ngũ công chức có trình độ chuyên môn sâu, chuyên nghiệp, làm chủ công nghệ, trang thiết bị hiện đại, được tổ chức, quản lý khoa học, đáp ứng mô hình quản lý hải quan hiện đại.
Để đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, Cục Thuế XNK cần tiếp tục bám sát các mục tiêu, nhiệm vụ tham mưu, đề xuất xây dựng cơ chế chính sách thuế và quản lý thuế theo hướng tạo thuận lợi thương mại, hoạt động kinh doanh, sản xuất cho DN nhằm nuôi dưỡng nguồn thu, chống thất thu, chống gian lận thương mại qua mã, giá, miễn giảm thuế, hoàn thuế…
Trong đó, không ngừng đổi mới, hoàn chỉnh các phương pháp dự báo nguồn thu; cải tiến, hiện đại hóa công tác quản lý thu bằng các hệ thống CNTT quản lý dữ liệu để phục vụ vào nhiệm vụ chung của Ngành.
NGUỒN HẢI QUAN ONLINE